Thursday, November 2, 2017

Về chương trình tử vi của Trần Nhật Thành

Vào những năm 2009 - 2010 tôi có viết 1 chương trình tử vi (xem post củ hơn trên blog này) và đăng trên trang tuvilyso. Sau đó tôi không cảm thấy hứng thú với trang này nữa nên đã không bao giờ quay lại. Một người tên Trần Nhật Thành đã dịch ngược code của chương trình tử vi này và chỉnh sửa giao diện theo ý mình. Anh ta, không biết vô tình hay cố ý, còn để lại email của tôi trên giao diện và/hoặc trên lá số in ra. Nhiều người đã theo email đó liên hệ với tôi hỏi về phần mềm tử vi này. Như vậy, tôi xin thông báo là: - Tôi không có trách nhiệm hay hiểu biết gì về chương trình tử vi này. - Tôi không muốn chia sẽ code của chương trình tử vi này. Các bạn cần có thể đi theo con đường của Trần Nhật Thành. - Tôi cũng không hứng thú trao đổi riêng với ai các vấn đề liên quan tới phần mềm này. Về phần mềm tử vi mà mọi người có thể download từ blog này: - Tôi viết phần mềm này năm 2009 trên nền tản dot net 3.5. Nó có thể không hoạt động tốt trên những hệ thống mới. - Tôi không có phiên bản cập nhật nào thêm nữa kể từ đó. - Nhiều người dùng phần mềm của tôi (và của Trần Nhật Thành) để lập lá số và xem tử vi có lấy phí. Như vậy là trái với yêu cầu sử dụng bản quyền của tôi là chỉ dùng cho mục đích phi lợi nhuận.

Thursday, March 24, 2011

Chương trình an sao tử vi

Chương trình an sao tử vi này có phần tính âm lịch theo múi giờ. Người sinh ra ở đâu thì chọn múi giờ ở đó và nạp ngày giờ địa phương đó để an sao.
Hướng dẫn cài đặt:
1. Nếu sử dụng windows XP thì trước tiên phải download và cài Dot Net Framework 3.5 hoặc cao hơn. Download tại đây. Nếu dùng windows Vista hay Windows 7 thì bỏ qua bước này.
2. Download chương trình tử vi tại đây.
3. Giải nén và chạy file .exe. Phải nhấn ok xác nhận nếu máy có bật UCM.

Saturday, September 4, 2010

Sách căn bản về tướng số.


Tôi quyết định viết cuốn sách này vì thấy nhiều bạn trẻ muốn trang bị cho mình chút ít kiến thức về tướng số, mà nhu cầu này hoàn toàn chính đáng. Khi tiếp xúc làm ăn hay kết bạn, chắc hẳn người ta muốn biết nhiều về đối tác nhưng chẳng phải khi nào người ta cũng xin được ngày giờ sinh. Trong trường hợp này, tướng thuật tỏ ra đắc dụng.
Thế nhưng, số sách tướng thì ít hơn số sách tử vi nhiều. Trong số đó, theo chủ quan của tôi, số sách viết hay và cung cấp kiến thức chính xác thì chỉ có một hai quyển. Nhiều quyển được soạn công phu nhưng những hình minh họa thì là hình vẽ mà đến như tôi cũng chịu không hiểu nổi tác giả muốn diễn tả hình tướng nào. Nhiều cuốn thì tràn đầy kiến thức nhưng lại chỉ là những gạch đầu dòng liệt kê hàng loạt. Mà toàn gạch đầu dòng thì khó mà nhớ được. Khối kiến thức đó như những những mảng rời rạc.
Chính vì có những nhận xét như vậy và nhận thấy rằng với những phương tiện như hiện nay, việc trình bày có mạch lạc, từ căn bản đi lên và dùng ảnh chụp để minh họa thay cho hình vẽ là việc không quá khó nên tôi đã quyết định viết cuốn sách này, hầu lưu lại những điều mình đã biết và giúp cho những ai đang tầm học đỡ khó khăn.
Có thể download sách tại đây:

Sunday, January 31, 2010

Một số câu hỏi khó chịu

Bài viết này tôi viết cách đây hơn 2 năm (9/5/2007), giờ gom về đây cho tiện.
Những người xem bói thường bị hỏi những câu hỏi khó. Một số là người ta thắc mắc thật tình nhưng cũng có những câu khiêu khích hay bắt bí. Dưới đây tôi xin kể một số câu hỏi mà tôi từng bị hỏi. Một số thì tôi trả lời được, số khác thì không, viết ra đây mong được chỉ giáo và để quí vị đọc chơi.
1. Những người sinh đôi thường là cùng giờ sinh, vậy số mệnh họ có giống nhau không?
Thực tế cho thấy nhiều cặp sinh đôi cùng giờ nhưng cuộc đời không mấy gì giống nhau, nếu không muốn nói là chỉ giống nhau hình dáng và chung cha mẹ (như 2 người em họ của tôi mà tôi chắc chắn là sinh cùng giờ).
Cái này thì tôi từng giải thích trong bài “Bàn về số mệnh và các phương pháp đoán số”. Chúng ta phải chấp nhận cuộc đời con người có những điểm đến hạn mà tại đây tùy vào cá nhân mà số mệnh có thể bước sang những ngã rẻ rất khác nhau. Tử vi chỉ định tính mà cuộc đời thì nhiều khi cần định lượng. Như 15,5 điểm thì rớt, 16 điểm thì đỗ nhưng trên mặt định tính thì thật là chẳng khác nhau bao nhiêu.
Tôi từng được đọc một bài báo của một thầy tử vi nổi tiếng nói về 2 sĩ quan có cùng một lá số (sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và cùng giờ) nhưng không cùng cha mẹ. Theo ghi nhận của ông này thì 2 người này có biến cố cuộc đời khá giống nhau nhưng ở các cấp độ khác nhau như năm thăng cấp thì giống nhau như cấp bậc thì khác nhau. 2 người mất cùng năm nhưng trước sau nhau 6 tháng và cái chết cũng khác nhau chút ít.
Như vậy, thì cũng trấn an phần nào cho dân xem số dựa trên ngày tháng năm sinh!

2. Nhiều trường hợp người mẹ được tiên lượng là sinh khó và bác sỉ chỉ định là sinh mổ. Vì đằng nào thì cũng mổ nên thường người ta cho phép chọn ngày giờ. Nhiều người nhờ thầy xem dùm trong khoảng thời gian đó (cũng khoảng năm ba ngày), ngày giờ nào là đẹp nhất … rồi mổ. Thế thì tử vi trong trường họp này có giá trị gì không?
Tôi có được yêu cầu xem và chọn ngày sinh như vậy một lần và tôi đã từ chối. Sau đó người mẹ này nhờ một người khác xem và định ra giờ mổ. Tuy nhiên, đúng giờ đúng ngày thì phòng mổ bị kẹt do có ca cấp cứu rất khẩn, thế là giờ mổ (cũng là giờ sinh của đứa bé) bị dời đi mấy giờ. Nhờ vậy có thể nói rằng thiên định vẫn cứ là thiên định. Dù vậy, tôi nghĩ vẫn có người thành công trong việc sinh con theo ngày giờ đã định và như vậy, lá số này có chính xác không?
Một chi tiết nhỏ là sau đó, vì tò mò, tôi lập cả 2 lá số, một theo giờ đã định trước và một theo giờ đã mổ thì không thấy lá số nào khả dĩ là đẹp cả?!

3. Có người hỏi rằng khi máy bay rơi thì hàng trăm người chết cùng lúc, chẳng lẽ ngần ấy người có cùng số chết năm đó, tháng đó, giờ đó sao?
Tôi đã từng trả lời người chất vấn rằng (cũng là theo trong sách thôi), cũng có khi máy bay rơi, hàng trăm người chết, nhưng vài người sống sót hy hữu. Điều này chứng tỏ là có số.
Dầu vậy, trong thâm tâm tôi, nếu có ai đó mà sưu tầm hết lá số của những người bị nạn trên máy bay, tôi nghĩ cũng khó mà biện luận cho thông cái lý ngần ấy lá số chết vào năm, tháng đó.
Phía tướng số thì có ghi chép rằng có thầy tướng nọ, đến vùng kia thấy sắc mặt người nào cũng u ám. Sau đó ít lâu, quả nhiên vùng đó bị giặc dã tàn phá. Hy vọng là cũng có hiện tượng tương tự cho trường hợp rơi máy bay.

4. Trong phép bói tung đồng tiền, nhiều người được quẻ không như ý bèn gieo tiếp và cứ gieo hoài cho tới khi được quẻ tốt. Như vậy thì sao?
Câu này thì sách có trả lời nhưng mãi sau này tôi mới được đọc. Đó là cuốn “Tăng san bốc dịch” của Dã Hạc Lão Nhân. Ông này cho rằng nếu bói một lần đã rõ nghĩa thì không nên bói lại, còn như chưa rõ thì thành tâm làm lại cũng được. Khi gieo quẻ thì thành tâm, trong lòng trống rỗng thì mới nghiệm, chứ cứ mong quẻ theo ý mình thì quẻ sẽ không ứng nghiệm.
Dù vậy, nhiều người cũng không chịu lý luận này.

5. Ta thấy một số sách bói nói, vd: người mạng kim thì hợp với màu vàng vì vàng thuộc thổ. Có anh bạn tôi, quyết lòng làm theo sách, đã chọn mua chiếc xe màu vàng. Nhưng mua rồi, đem về nhà ngắm thì thấy xe không hoàn toàn màu vàng (dĩ nhiên rồi, vì toàn vàng thì … xấu quá) mà có chỗ xanh chỗ đỏ lung tung. Anh lại nghe nói “thiểu thắng đa” và càng lo lắng hơn. Tôi bèn giải thích cho anh là “thiểu thắng đa” là như chữ trên tờ giấy, phần chữ chỉ chiếm vài phần trăm diện tích tờ giấy nhưng người ta nhìn, đọc là ở phần này, nên nó là chủ đạo; tương tự, trong một viên thuốc, phần lớn là chất độn, chỉ có chút xíu dược chất nhưng lại là phần tạo ra công dụng chính của thuốc …. Trong trường họp chiếc xe thì lại khác, đập ngay vào mắt người ta là màu sơn chính của thân xe, ai mà chú ý các họa tiết khác. Ngay trên giấy tờ xe cũng ghi màu vàng đó thôi, nếu anh có bị police đuổi bắt, người ta cũng sẽ nói trên bộ đàm “Một chiếc xe màu vàng đang chạy về ….”. Anh bạn tôi nhờ vậy mới yên tâm.
Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi, tôi nghĩ rằng lấy hạp năm sinh âm rồi suy ra màu này hợp màu kia không xem chừng vô lý quá, chắc không có tác dụng gì. Đồng đô la nào cũng màu xanh, nhưng tôi không nghĩ những người mạng thổ thì kỵ chúng?!

6. Nhiều người đặt vấn đề, giả sử anh X năm nay vận xấu nhưng anh quyết tâm làm cái gì cũng coi ngày, làm toàn vào những giờ hoàng đạo của những ngày “Đại cát, đại lợi … tiểu tác tiểu phát, đại tác đại phát” thì sao, anh ta có thành công không?
Theo tôi thì xem ngày tốt xấu cũng như xem thời tiết, nó cũng chỉ là một yếu tố phụ trợ cho công việc thêm thuận tiện thôi. Chủ yếu vẫn là khí vận của người đó. Ví như anh đi cắm trại với gia đình, nếu trời đẹp thì cuộc đi chơi càng vui, nếu trời xấu mất vui đôi chút. Tuy nhiên, nếu anh phải đi với bà vợ lắm mồm, một bầy con ngổ nghịch thì dù trời có đẹp cũng chẳng vui nỗi. Ngược lại, nếu anh đi với người yêu mới, xinh đẹp dịu dàng, có khi trời càng giống tố càng … hay.

7. Lão tử khi tiễn Khổng tử ra về có nói “Những gì ông nghiên cứu thuộc về người xưa, người xưa thì chết rồi, thời đại của người xưa cũng qua rồi, vì vậy những điều này không nên xem là bất di bất dịch”. Các khoa xem bói cũng có vấn đề này và liệu ngày nay cần điều chỉnh ra sao? Ôm nguyên khuôn của người xưa thì chắc là không ổn rồi.
Đành rằng phải đồng ý ngay là phải có điều chỉnh, nhưng điều chỉnh ra sao thì khó quá. Một ví dụ: có những bệnh như ruột thừa chẳng hạn, ngày xưa bị là chết, nhưng ngày nay thì chữa không khó khăn gì. Nếu cho rằng lá số có phản ánh các quá trình vượng, suy sinh học của cơ thể thì cái hạn lớn này trên lá số ra sao, chắc là sai chăng?
Vấn đề gay go nhất là phía nữ giới. Mọi lý luận của các khoa bói đều đặt trên nền tảng: đường chồng con có giá trị to lớn trong cuộc đời người đàn bà. Thêm nữa, vấn đề tiết hạnh rất được xem trọng. Những điều này ngày nay giảm giá trị đi rất nhiều. Trong tướng thuật thì mũi của đàn ông là cung quan, của đàn bà là cung phu. Ngày nay có cần sửa chữa điều này không?
Trong tử vi thì có những sao chỉ sự thất tiết của đàn bà như kình – kỵ, cự - kỵ, đào-riêu mà ngoài ý nghĩa tiết hạnh ra còn mang nhiều ý nghĩa rất xấu. Lưu ý rằng ngày xưa để đàn ông ngoài chồng, cha ra nắm tay đã là “thất tiết”. Trong khi ngày nay, bạn khác giới cũng có thể hôn nhau.
Như vậy có 3 cách hiểu trong bối cảnh ngày nay:
a. Những bộ sao này không còn ý nghĩa dữ dội nữa.
b. Nếu có những sao này, người phụ nữ sẽ có đời sống tình ái rất dữ dội để gánh tai tiếng và rắc rối tương đương như ngày xưa. Hoặc có thể hiểu là không bị ý nghĩa xấu này sẽ bị ý xấu khác.
c. Nhìn chung, lá số không chỉ sự vật mà chỉ cảm giác, cảm nhận của đương số đối với sự vật. Như vậy thì không phụ thuộc văn hóa và đạo đức xã hội nữa nhưng cách luận đoán diễn thành sự việc thì phải thay đổi. Điều này tùy vào vốn sống và kiến thức xã hội của ông thầy.
Thật sự tôi chịu không dám chắc hiểu thế nào là đúng. Ý cuối cùng có vẻ khả chấp hơn cả nhưng cũng có cái kẹt. Ví dụ 2 câu phú rất nổi tiếng:
Sao Thai mà ngộ Đào hoa
Tiền dâm, hậu thú mới ra vợ chồng.
Trong bối cảnh mà chuyện con đi theo ôm váy cưới cho mẹ trong lễ thành hôn còn là chuyện thường thì … bộ sao này có còn ý nghĩa gì? Có thể là nó sẽ chỉ một hiện tượng gì đó khác trong chuyện hôn nhân. Cái cảm giác, cảm nhận của những người “tiền dâm, hậu thú” ngày xưa ra sao, diễn dịch trong bối cảnh ngày nay thì như thế nào?

8. Gieo quẻ để đoán vật.
Cách đây hơn 10 năm, trong khi đi cắm trại với một nhóm bạn, tôi đem theo quyển sách chỉ cách xem Mai hoa dịch. Một anh bạn tò mò đọc được lỏm bỏm đoạn “Đoán vật” bèn đánh cá tôi đoán vật mà anh ta bí mật cầm trong tay trong khi tôi phải đi ra ngoài. Tôi nhớ tới chuyện Thiệu Khang Tiết bảo con mình đoán vật khi có hàng xóm sang gõ cửa và nghĩ rằng việc đoán vật là 1 bài tập hay nên nhận cá. Trong lúc tôi ra khỏi lều, bạn tôi bèn chọn một món đồ và cầm trong tay. Tôi trở vào và phải xủ quẻ để đoán vật ấy.
Tôi ghi lại chính xác những gì tôi đã nghĩ lúc đó, mặt dù có thể đối với nhiều người đọc bài này thì thật là mông muội và bậy bạ.
Tôi bấm lục nhâm đại độn và được Đại cát lâm Tý tức trạch thủy Khổn. Vừa đoán vừa nói ra thành lời cho tất cả mọi người nghe. Vì trạch là kim nên có lẽ vật sẽ tròn và có màu trắng và bằng kim loại. Không tính Thủy vì thủy thì không nằm trong lòng bàn tay được mà có lẽ vật này liên quan đến nước. Tôi đoán chắc là nắp chai bia (bằng kim loại) màu trắng và đã cong vênh không còn dùng được nữa.
Khi bạn tôi mở nắm tay ra thì đó là nắp chai nước suối đã bị tét và có màu trắng, bằng nhựa. Dù theo quan điểm lý số, tôi thất bại thảm hại trong biện luận ngũ hành nhưng các bạn tôi thì đâu có rành nên cũng tròn mắt thán phục và cho tôi được “thủ hòa”. Tuy nhiên, họ bắt tôi làm lại lần nữa. Họ thấy tôi biện luận dựa nhiều vào cái lý “nằm trong bàn tay” nên lần này họ lấy cái nón úp lên vật mà tôi phải đoán.
Lần này tôi không dùng Lục nhâm nữa mà tính một quẻ tiên thiên, được thiên sơn Độn, biến ra phong sơn Tiệm. Tôi lại cho đó là vật tròn, màu trắng. Sở dỉ tôi bỏ qua hành thổ vì cho rằng thổ là căn bản, cái gì mà chẳng có thể về với đất. Tôi lại thấy có hành mộc, chắc là thứ gì dễ cháy như giấy. Vậy là lần này họ làm khó tôi bằng cách chọn thứ có 2 chất liệu khác nhau. Tôi hối hận đã biện luận cho họ nghe ở lần trước. Trong hổ quái có thêm hành hỏa, vậy chắc là vật bằng kim loại được rèn đúc. Tuy nhiên, như đã nói, lần này vật cần đoán nằm dưới cái nón to, không thể loại các vật to được. Tôi nghĩ: “hay xét thêm ý của quẻ xem sao”. Tiệm là tiến từ từ, và như có ai nhắc, trong đầu tôi chợt lóe lên: đồng hồ. Kim đồng hồ tiến từ từ, bằng kim loại, dây đồng hồ bằng da, dễ cháy. Thấy rằng có nghĩ thêm cũng không sáng hơn được, tôi bèn nói liều luôn: “đồng hồ đeo tay, có dây da”. Những tưởng sẽ nghe một tràng cười chế giểu, không ngờ bạn tôi dở nón lên, dưới nón là đồng hồ dây da thật và họ nhìn tôi thán phục.
Họ có yêu cầu tôi làm lần thứ 3 nhưng tôi chào thua vì biết rằng may mắn không thể lặp lại 3 lần. Bây giờ, có ai cá thách tôi làm như vậy nữa, tôi sẽ không nhận dù bây giờ kiến thức của tôi về ngũ hành vững vàng hơn trước nhiều. 

Tuesday, January 12, 2010

Linh hồn là gì?

Trong quyển “Thiền – Nghệ thuật của nhập định” có một câu hỏi dành cho Osho là “Thầy gọi linh hồn là gì? Có phải linh hồn chính là sự thức tỉnh hoặc là cái gì đó như là cá thể?”
Osho đã có câu trả lời khá hay, tôi xin trích đoạn và tóm lược như sau:

Phẩn thứ nhất là về linh hồn.
“Đã có 3 thái độ về vấn đề này:
Đâu tiên là những nhà huyền môn, nhưng người biết, họ đang hoàn toàn giữ im lặng về vấn đề này. Họ sẽ không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào; họ nói định nghĩa là vô tích sự. Có nhóm huyền môn khác – nhóm lớn hơn – họ nói rằng, thậm chí, nỗ lực phù phiếm cũng trở nên hữu ích. Đôi khi lý thuyết sai cũng dẫn đến sự thật, đôi khi những điều sai trái cũng trở thành đúng, đôi khi những bước đi giả tạo cũng dẫn bạn đến kết cục có lý. Ở thời điểm nào đó nó có vẻ sai, nhưng phương kế sai lại có thể trở nên hữu ích.
Nhóm thứ 2 cảm nhận rằng, với việc giữ nguyên sự im lặng bạn vẫn tiếp tục nói một điều gì đó mà nó không thể nói lên điều gì. Và nhóm huyền môn thứ 2 đã có lý. Các định nghĩa đều phụ thuộc vào họ.
Và có nhóm thứ ba, họ là những người không im lặng mà cũng không định nghĩa. Họ chỉ định nghĩa toàn bộ vấn đề để bạn không bị ám ảnh với nó.
Đức phật thuộc nhóm thứ 3. Nếu bạn hỏi người rằng có hay không linh hồn, có hay không thượng đế, có hay không sự tồn tại bên ngoài cuộc sống, người sẽ từ chối.
….
Ba nhóm này luôn trong tình trạng tranh cãi, bởi vì người nói buộc phải cảm nhận rằng, những người giữ im lặng không có đủ lòng trắc ẩn, rằng họ phải nói một cái gì đó với những người không hiểu sự im lặng. Và những người định nghĩa thì họ đã định nghĩa bằng rất nhiều cách đến mức có nhiều sự tranh cãi về điều đó: sự tranh cãi buộc phải có đó”


Nhiều người có thể hiểu dễ dàng những dòng trên nhưng cũng có thể nhiều người khác thấy bối rối. Tôi xin giải thích thêm:
Chuyện linh hồn không thể giải thích rốt ráo bằng lời nhưng con người thì không ngừng thắc mắc. Một số hiểu rằng, người bình thường không sao hiểu cho đúng được, có giải thích thì người ta cũng hiểu sai lệch và có khi còn sinh ra lắm chuyện nguy hiểm, nên họ im lặng. Nhóm thứ 2 cũng hiểu như vậy, nhưng họ thấy là im lặng làm ngơ trước sự tìm kiếm, thắc mắc của mọi người là không đủ lòng trắc ẩn. Họ bèn đưa ra những định nghĩa dù biết là nó không hoàn toàn đúng. Thảng hoặc, họ đưa ra những lập luận mà thực chất là chẳng nói lên điều gì. Vì rằng không hoàn toàn đúng hoặc chẳng nói lên điều gì nên các thầy khác nhau đưa ra những định nghĩa khác nhau và các môn đồ sau này, tha hồ tranh cãi không dứt!

Giải pháp thứ 3 là làm như đức phật. Người không trả lời thẳng các câu hỏi này mà hướng dẫn người ta đi theo đường đạo để đến ngày nào đó, tự trả lời cho chính mình.

Phần thứ 2 của câu hỏi là về tính cá thể của linh hồn.
Đầu tiên phải giải thích tại sao lại có câu hỏi như vậy: theo Hindu, sau khi qua vô số kiếp mài dủa cho hoàn hảo hơn, người ta có thể hòa vào đại ngã, nghĩa là cá thể không còn nữa; theo phật, sau khi chứng đắc sẽ không còn chấp và phân biệt “ta” và “không ta” nữa. Chính vì lẻ này vấn đề cá thể của linh hồn được đặt ra.

Câu trả lời của Osho như sau:
“Bạn hỏi linh hồn có phải là cá thể. Đó là câu hỏi vô nghĩa, nhưng nó thích họp với bạn. Đó giống như câu hỏi của người mù (trong câu chuyện sau) hẳn muốn hỏi:
Người mù di chuyển với cây gậy. Anh ta không thể di chuyển mà không có nó: anh ta tìm kiếm và mò mẫm trong bóng tối bởi nó. Nếu chúng ta nói với anh ta về việc phẩu thuật mắt để mắt có thể nhìn thấy thì người mù sẽ hỏi một cách rất đúng chỗ rằng: “khi mắt tôi bình thường, liệu tôi có khả năng mò mẫm trong bóng tối với cây gậy này không?”
Nếu chúng ta nói “bạn sẽ KHÔNG CẦN cây gậy nữa”, anh ta sẽ không tin điều đó. Anh ta sẽ nói: “không có cây gậy này tôi không thể tồn tại, tôi không thể sống. Những gì bạn nói là không thể chấp nhận. Tôi không thể tưởng tượng chuyện đó, không có gậy, tôi không thể là tôi. Cái gì sẽ trở thành cây gậy của tôi? Đầu tiên hãy cho tôi điều đó đã!”

Thật sự, tính cách này giống như tính cách của cây gậy. Bạn đang mò mẫm trong bóng đêm cùng bản ngã, bởi vì bạn không có linh hồn; bản ngã này, “cái tôi” này đang mò mẫm bởi vì bạn không có đôi mắt sáng. Tại thời điểm bạn trở nên hoàn toàn sống động, bản ngã sẽ biến mất. Đó là một phần sự đui mù của bạn, một phần sự không sống động, một phần vô thức của bạn, một phần ngu dốt của bạn. Nó phải thực sự được bỏ rơi.”

Cho phép tôi được giải thích thêm là, nhiều người cảm thấy khó chịu với ý nghĩ không có bản ngã, không có một cá thể nào mang tên “tôi”. Họ tự hỏi “nếu tôi tan biến đi, bản ngã tan biến đi, thì có khác gì chết hoặc là biến mất vĩnh viễn”. Chú ý là nhiều người tìm đến tôn giáo vì không chịu nỗi ý nghĩ mình sẽ tan biến hoàn toàn khi chết; họ mong mỏi “trở thành” gì đó sau khi chết.

Ý kiến khác
Trong cuốn “Huyền thuật và các đạo sĩ Tây tạng” của bà Alexandra David Neel, vấn đề này cũng được đề cập tới nhưng có vẻ dịu dàng và dễ chịu hơn. Xin chép lại đoạn sau, bắt đầu từ trang 29 (bản in của nhà xuất bản Phương đông):
“Vì lý do nào đó, tôn giáo Tây tạng chú ý rất nhiều về cõi giới bên kia cửa tử, hầu như câu chuyện nào cũng đề cập đến cõi giới này. Quan niệm thông thường cho rằng linh hồn con người vốn bất tử và di chuyển qua muôn ngàn kiếp sống luân hồi để học hỏi và thay đổi. Điều này thật ra không đúng lắm vì phật giáo không hề chủ trương có một cái gì trường tồn, bất biến như linh hồn. Nói cho đúng hơn thì họ tin rằng cái “sinh lực” hay “sự sống” tạo ra bởi trạng thái tâm và sinh lý của một sinh vật đều do nhân duyên tạo thành và do nghiệp dẫn dắt đi trong sáu nẻo luân hồi.
….
Có nhiều lối giải thích khác nhau và nhiều lý thuyết về sự hiện diện của bản ngã nhưng tại Tây tạng cũng như mọi nơi khác, chỉ những bậc đạo sư hay giới trí thức mới có thể hiểu rõ và giải thích tường tận các điều này. Phần lớn dân chúng tin tưởng giản dị rằng con người sau khi chết sẽ đầu thai trở lại dưới một hình thức nào đó tùy theo hành động của đời sống hiện tại. Cái “năng lực di chuyển từ kiếp này qua kiếp khác” được diễn tả bằng danh từ “Yid Kyi Mampar Shespa” có phần đúng hơn là danh từ “linh hồn” (spirit) vì nó không đề cập đến một thực thể có tính cách trường tồn bất biến”

Theo tôi thì một số dịch giả Việt nam cũng đã dùng từ “Thần thức” để thay cho từ “linh hồn”.


Có một hiện tượng liên quan tời chuyện linh hồn là ma quỷ. Tây tạng là xứ sở của các huyền thuật. Các cao tăng Tây tạng cho rằng đó chỉ là phóng ảnh của tâm thức. Do đó, một người không tin có ma quỷ sẽ không nhìn thấy ma quỷ bao giờ. Tuy nhiên, họ cũng lưu ý rằng nếu như bạn đang đi trong rừng mà có con cọp nhảy xổ ra thì liệu đó là phóng ảnh hay là hiện hữu? Nó đang gầm rú kia và sắp xơi tái ta kìa!?
Thế nên, dù là phóng ảnh thì cái tư tưởng được tạo ra kia cũng có một sức mạnh riêng của nó và biết đâu, có thể nó cũng có đời sống riêng. Kết luận cho đoạn này, bà Alexandra Neel đã viết “Nói một cách khác, không những người ta phải đề phòng những con cọp mà họ đã phóng chiếu lên trong tâm thức mình mà còn phải cẩn thận đối với những con cọp tạo bởi những tư tưởng của người khác nữa.”

Cuối cuốn sách, bà Alexandra Neel đã kết luận về những huyền thuật siêu đẳng mà mình đã chứng kiến và kể lại trong cuốn sách, có đoạn như sau:
“Sức mạnh của tư tưởng có thể tạo ra “hình tư tưởng” hay một thực thể có sự sống riêng biệt, có thể hành động tùy theo mệnh lệnh của người tạo ra chúng, đó là căn bản của các phương pháp luyện âm binh. Vì việc tạo một hình tư tưởng trừu tượng không dễ dàng nên nhiều người đã phải xử dụng một vật hữu hình nào đó làm trung gian, đó là căn bản các bùa phép, linh đơn, nước thánh hay những linh vật phù hộ. …”

Để minh họa cho sức mạnh tạo ra bởi tinh thần, người Tây tạng thường truyền kể câu chuyện sau:
Một người lái buôn thường đi lại giữa Ấn độ và Tây tạng. Mẹ ông ta muốn con mình xin một viên xá lợi của thánh tăng mang về cho mình. Ông ta sau nhiều lần quên bẳng, khi về tới gần nhà nhớ ra và sợ mẹ mắng nên nhặt đại một mảnh xương nhỏ dọc đường gói lại cẩn thận đem về cho mẹ nói là xá lợi. Người mẹ hết sức mừng rỡ cho vào một bảo tháp vàng và đem lên hiến cho chùa. Dân trong vùng tin tưởng hàng ngày kéo tới cúng bái. Kỳ lạ thay, sau thời gian, viên xương đó cũng chiếu hào quang rực rỡ và tạo ra nhiều hiện tượng hết sức mầu nhiệm.

Bàn về hạnh phúc

Dưới đây là vài nghi nhận của tôi sau khi đọc quyển “Bàn về hạnh phúc” của Matthieu Ricard. Ông này là tiến sĩ sinh học người Pháp nhưng sau khi nhận bằng tiến sĩ đã bỏ tất cả qua Tây tạng học đạo và giờ đã ở đấy hơn 30 năm.

Cũng như những cuốn khác cùng chủ đề, tác giả đã dành nhiều trang sách nói về bản chất của đau khổ và chứng minh rằng, hạnh phúc là một cách sống mà người ta phải lựa chọn nó chứ không phải tìm kiếm ở bên ngoài. Ông đã có một diễn giải rất hay về những khoái cảm khi được thỏa mãn tham dục: Cái khoái cảm này giống như sự khoan khoái khi gãi ngứa. Tất nhiên là rất đã khi ngứa mà được gãi, nhưng càng gãi thì càng ngứa và đôi khi nó làm người ta gãi cho đến bật máu.

Xuất thân là nhà khoa học, ông diễn đạt những vấn đề gai góc của đạo học một cách sáng sủa mà lại không quá nôm na, sai lạc. Trong phần nói về “phá bỏ bản ngã” ông đã định nghĩa một cá thể gồm 3 phần: “cái tôi”, “con người” và “bản ngã”.

“Cái tôi” sống trong hiện tại, chính nó nghĩ “tôi đói”, “tôi đang tồn tại”. Đó là cái tôi thông qua kinh nghiệm hiện trạng của bản thân, cái tôi bản năng, cái tôi của “Ngã thức”.

Khái niệm “con người” rộng rãi hơn nhiều, nó là cái liên tục và năng động nối liền quá khứ, hiện tại và cả tương lai nữa. “Con người” cũng là tổng hòa các mối tương quan xã hội, thân thể, ý thức. Khái niệm về “con người tôi” này là lành mạnh nếu nó chỉ dừng lại ở mức khái niệm có tính ghi nhớ. Nó trở thành không lành mạnh nếu xem đó là thực thể tự chủ. Chỗ này khó hiểu, tôi xin mạn phép lấy ví dụ: “Tôi đã từng nghiên cứu lý số, từng xem cho nhiều người và được một số hoan nghênh” … đó là “con người tôi” như một bản ghi nhớ, nó không phải là thực thể. Nếu phát triển lên thành “tôi đã từng xem lý số rất hay và được kính trọng, tôi là cao nhân … và những gì tôi nói là chân lý …” thì thành mầm mống của đau khổ.

“Bản ngã” thì rắc rối hơn, nó là tổng thể không nhìn thấy được của chúng ta, là danh hiệu chung cho tất cả liên quan tới “tôi” như “tiếng tăm của tôi”, “tay chân tôi”, “gan ruột của tôi” … . Dù hết sức kính phục tác giả, tôi phải nhận là, ông ta cũng đã không làm sáng tỏ gì hơn một phần rất khó nhằn là chứng minh rằng, không tồn tại một cái gì như là cái “ngã” thực thể trong mỗi chúng ta. Ông ta chỉ chỉ ra được, cái ngã không có ở bất kỳ đâu trong chúng ta và chỉ là khái niệm nhưng được chúng ta nuôi dưỡng và tin tưởng là có thật. Tuy nói thì nghe dễ vậy, việc lãnh hội được điều này là vô cùng khó, mà chắc cũng khó lòng mà lãnh hội được chỉ qua con đường đọc sách đơn thuần.

Phần hay nhất của cuốn sách là phần nói về những nghiên cứu xã hội học để tìm hiểu mức độ hạnh phúc và những yếu tố ảnh hưởng tới nó.

Trong suốt 30 năm qua, có hơn 2000 công trình nghiên cứu về hạnh phúc tại hơn 70 quốc gia. Ruut Veenhoven đã tổng kết hầu hết các nghiên cứu và đưa ra 3 kết luận chính:
- Gen quyết định khoảng 50% khả năng hạnh phúc của một cá nhân.
- Những yếu tố như giáo dục, gia đình, xã hội có ảnh hưởng đến hạnh phúc nhưng không nhiều, chỉ vào khoảng 10 tới 15%.
- Phần còn lại là do thái độ và sự lựa chọn của chính cá nhân đó.

Trước tiên phải dừng lại và nói cho rõ là, để biết cái nào là do di truyền cái nào là do ngoại cảnh, người ta đã tập trung nghiên cứu các cặp sinh đôi. Những cặp sinh đôi cùng trứng có gen và môi trường nuôi dưỡng như nhau nếu được nuôi chung. Nhiều đôi, được tách ra từ nhỏ và sống với cha mẹ khác nhau thì là cùng gen nhưng khác môi trường nuôi dưỡng. Ví dụ như nghiên cứu của Tellegen, quan sát hàng trăm trường hợp sinh đôi được nhận nuôi riêng biệt, đã kết luận rằng, những đứa trẻ này có những đặc điểm tâm lý giống cha mẹ đẻ hơn (dù họ không nuôi chúng) cha mẹ nuôi. Hàng nghìn nghiên cứu tương tự đã được tiến hành và đã đưa đến kết luận như nêu ở trên.

Cái này cũng hết sức có ý nghĩa cho người học lý số. Những cặp song sinh, dĩ nhiên là không kể một xác suất rất nhỏ là sinh vào giao điểm 2 giờ, có cùng một lá số. Thế mà, theo nghiên cứu, gen chỉ quyết định 50%, 15% nữa là do môi trường, cũng có thể hiểu là cũng do vận số và có thể phát biểu lại là nếu cùng lá số, cùng môi trường nuôi dưỡng thì mới triệt buộc chưa đến 65% khả năng hạnh phúc, còn khoảng hơn 35% còn lại vẫn là do chúng ta lựa chọn và quyết định. Tỉ lệ này không phải nhiều nhưng cũng không ít. Tóm lại, trong khi cụm từ cải sửa số mệnh có thể chưa chính xác thì việc cá nhân có nhiều lựa chọn trong khuông khổ số mệnh là điều không còn nghi ngờ gì nữa (qua các nghiên cứu tâm lý học nêu trên).

Friday, November 6, 2009

Lý trong tướng số

Khi học lý số, một số người thích sưu tầm những công thức ngắn gọn, rõ ràng và ghi nhớ như là bí kiếp. Thật ra, việc giải đoán không thể quá đơn giản và dể dàng công thức hóa khi mà ta mong đợi nó đoán chính xác cuộc sống thiên hình vạn trạng và vốn cũng không mấy khi rỏ ràng dứt khoát .

Tất cả đều là gián tiếp
Có người thắc mắc tại sao có sách nói cung phụ mẫu ở tai, sách khác lại nói ở đỉnh trán và sách khác nữa lại nói nằm ở 2 phần thái dương và thái âm trên trán.
Thật ra thì, tai (nhất là phần trên – tướng thuật chia tai chia làm 3 phần) cho ta biết về sự chăm sóc về vật chất trong thời thơ ấu mà đương số được hưởng. Ví dụ như có được cho ăn đầy đủ không, đau ốm có được chạy chữa không, lạnh có được ủ ấm không … v v. Trong khi đó, phần đỉnh trán là vùng biểu thị chất lượng tình cảm và tinh thần mà đương số được hưởng trong khoảng thời gian khoảng từ 2 cho tới 9 tuổi. Phần thái âm và thái dương thì cũng tương tự vậy nhưng từ khoảng 9 tuổi tới 14 tuổi. Vùng âm và dương và phần phụ cận nói lên thanh thế và truyền thống gia đình. Dĩ nhiên, những dấu hiệu của tai giúp ta, một cách gián tiếp, phần nào đoán được về cha mẹ của đương số và trán cũng vậy. Tuy nhiên, nếu hiểu rỏ bản chất vấn đề như trên, ta có thể phối hợp để, chẳng những hiểu chi tiết hơn về tình trạng cha mẹ của đương số mà còn cả cái cách đương số được nuôi nấng và lớn lên – một mảng thông tin hữu ích cho cho việc tìm hiểu những mặt khác của cá nhân này.
Có nhiều vấn đề mà thông tin gián tiếp rất không chắc chắn nếu chỉ xem 1 bộ vị như khi xem quan vận hay tài vận. Có sách nói rằng quan vận ở giữa trán, sách khác lại nói quan vận ở mũi. Nhưng chắc chắn là 2 bộ vị này không đủ để xác quyết vấn đề.
Vào khoảng từ 14 đến đến 28 tháng tuổi, trẻ sơ sinh bắt đầu biết phân biệt “ta” và “người”. Khả năng xử lý với các cảm xúc khi tương tác với người xung quanh, chúng học ở những người nuôi dưỡng chúng trước tiên, sau qua bạn bè thầy cô. Khả năng này thể hiện ở trán. Ngoài ra, trí năng và các xu hướng tư duy cũng thể hiện ở đây vì sau khi nhận thức thấy mình tồn tại, tư duy phân biệt được, thua, hơn, thiệt bắt đầu phát triển mạnh (mà các rắc rối của cuộc đời cũng theo đó mà tới. ). Thế nên xem trán cho ta ước đoán khả năng thành công của một người.
Thế nhưng đấy chỉ là ước đoán thôi, đầu óc không chưa đủ, người đó cần có một nền tản khí lực dồi dào nữa. Trong tướng số, mũi tượng trưng cho 2 cơ quan hết sức quan trọng, đó là phổi và tim. Về tổng quát, nó biểu trưng cho khí lực tiềm tàng, tức khả năng thực hiện tới cùng một việc khi người ta muốn. Mũi như là ngọn núi trung tâm, khí luân chuyển trên mặt người đều đi qua mũi giống như khí luân chuyển trong cơ thể qua cột sống. Vì vậy mà phải kiểm tra mũi như là một điều kiện cần nữa cho sự thành đạt.
Ngoài ra, người ta muốn gì cũng là một điều quan trọng. Nếu chỉ mong muốn những thứ quá điên rồ hay vượt quá xa khả năng thì khó có thể thành công. Ta lại phải nhìn qua vùng lông mày và mắt, đặc biệt là mi cốt cơ quan biểu trưng cho những xu hướng cảm xúc của chúng ta. Hầu hết các sách đều cho rằng cái hay của mũi chỉ được phát huy khi phần mắt không ám hảm.
Mà như tôi đã từng viết ở đây, có tài năng thì cũng phải đổ mồ hôi, tức muốn nên chuyện thì kiểu gì cũng phải vất vả lắm, điều mà nhiều người không mấy sẵn lòng chịu đựng. Ta cũng thường thấy trong đời những người không thiếu khả năng nhưng ngại làm việc, thích vui chơi, lè phè hơn. Người ta chỉ có thể chịu đựng hết các nỗi cực khổ, nhọc nhằn trong công việc khi người ta có đam mê mạnh mẽ. Năng lực tinh thần này thể hiện ở quyền. Bộ quyền cho ta biết năng lực đam mê, sự cuồng nhiệt của một người có kéo dài và mạnh mẽ không, có dám xả thân cho mục đích của mình không. Quyền ăn theo mũi, nếu quyền to mà mũi kém thì có thể có lắm chuyện không hay (Kháng quyền bất như kháng tị - xem quyền rất khó, sai một tí đi xa lắc).
Người mà có hết những điều kiện trên cũng khá chắc là thành công nhưng để sự nghiệp to tác còn 2 điều nữa, đó là: họ sống có thọ không và có đủ nhẫn tâm không. Vì rằng “nhất tướng danh thành vạn cốt khô”, để thành công, đôi khi người ta phải rất nhẫn tâm để làm việc phải làm. Thế nên, chúng ta cũng phải xét xem hàm họ có đủ to không, răng của họ có mạnh mẽ đủ uy hiếp người khác không.
Cách xem khác là bắt đầu từ mũi rồi xem rộng ra quyền, tráng, mắt và hạ đình. Trình tự và lập luận có khác nhưng những bộ vị cần xem thì cũng như nhau. Cách xem như vậy có sách gọi là “Hỗn lưu cục”. Có sách không gọi tên nhưng có chỉ cách phối hợp, có điều là có lẻ để tránh đi việc quá rườm rà, phức tạp làm hoa mắt người đọc, họ chỉ nói qua loa và không hề giải thích tại sao khi xem cái này lại phải phối hợp cái kia và phối hợp ra sao.

Những sai lầm và vài nhận xét.
Hồi mới học tướng, có lần trà dư tửu hậu, tôi khoác lác rằng muốn biết cha mẹ thế nào thì phải xem trán. Có ông khoảng gần 50 mỉm cười hỏi tôi thấy cha mẹ ông ra sao. Tôi nhìn và thấy đỉnh trán hơi hãm, chỉ hơi thôi, nhưng vì không biết cân phân nên tôi bèn nói đại chung chung là “anh xa cha mẹ từ nhỏ nhưng không rỏ vì sao”. Ông này nói “tôi sống với cha mẹ từ nhỏ cho tới trưởng thành” nhưng cũng công nhận cha mẹ ông không bình thường. Số là, cha ông tới năm ngoài 60 mới quan hệ với mẹ ông, lúc đó là một người ở trong nhà mà sinh ra ông. Có ông thì cha ông mừng lắm nhưng tuổi đã cao, không có chuyện bế ông đi quanh nhà mỗi khi ông nóng sốt hay khóc quấy không chịu ngủ, càng không có hành động giáo huấn nghiêm khắc mỗi khi ông có lỗi lầm như kiểu những người cha thường làm đối với con trai. Còn mẹ ông, là thân phận người làm, việc săn sóc gần gũi ông hết sức hạn chế và chịu sự giám sát chặt chẽ của các bà chị lớn tuổi và khó tính của ông. Câu chuyện này cho ta thấy một kiểu sai lầm không tránh khỏi khi xem qua sơ sài theo công thức và cũng là hậu quả của sự không hiểu rõ những chỉ dấu đó, về bản chất nói lên điều gì.
Có lần tôi đọc đâu đó, có người nói, 2 tai mà ép sát đầu thì là quan chức nhà nước. Cái này cũng là một công thức rút gọn đốt cháy hết các bước trung gian. Thật ra, những người có tai vểnh ra (nghinh phong nhỉ) thường không nhẫn nại, hay phản kháng lại hoàn cảnh nên có khả năng(chỉ là có khả năng thôi) dẫn đến số phận lênh đênh, thăng trầm, vô định. Ngược lại, những người có tai ép sát đầu, dung nạp hoàn cảnh tốt hơn, nhẫn nại và có khả năng điều chỉnh bản thân mình theo thời thế. Chính vì lý do này, trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, loại người này dễ thăng tiến trong các cơ quan công quyền. Tuy nhiên, không phải ai có tai ép sát đầu cũng thành quan chức. Tôi có người bạn hiện buôn bán máy vi tính ở Bùi Thị Xuân, tai cũng ép sát đầu. Anh này cho rằng bí quyết để mình tồn tại cạnh những cửa hàng to lớn, rực rỡ là khả năng phục vụ tận tụy và chiều theo những ý muốn quái đảng hay khó chịu nhất của khách hàng. Điều ngược lại cũng vậy, hãy thử tìm trên mạng và nhìn ảnh chụp ông Huỳnh Ngọc Sĩ, nhân vật chính trong vụ hối lộ PCI, 2 tai ông này không hề ép sát đầu nếu không muốn nói là hơi vểnh.
Hiểu rỏ và đi vào thực chất hơn cho phép chúng ta phối họp chữ THỜI vào trong luận đoán. Trong thời thái bình, người tài không cần máu lửa lắm cũng có thể được khuyến khích phát triển và thành đạt, nghĩa là trán đẹp mũi đẹp là khá đủ; Còn trong thời loạn lạc, không cần tài nhiều mà chỉ cần quan hệ tốt, thì một cái trán tốt, tai tốt cũng làm được quá nhiều điều.

Nhân đây cũng nói qua 2 khuynh hướng trong tướng số. Một khuynh hướng chú trọng hình xương, còn khuynh hướng kia chú trọng những biểu hiện bên ngoài như da thịt, nốt ruồi … Xem xương tất nhiên khó hơn vì nó nằm ẩn bên dưới nhưng có phần chắc chắn và đỡ gián tiếp hơn, còn phần thịt và da thì gián tiếp của hình xương và có thể dễ có nhiều sai lệch do mập ốm, nắng mưa … và thẩm mỹ viện. Có điều, da thịt nằm ngoài nên dễ xem hơn. Trong những ví dụ ở trên, xu hướng xem hình xương coi cung quan và phụ mẫu đều ở trán, còn xu hướng thứ 2 cho là phụ mẫu ở tai còn quan lộc ở mũi. Trán là nơi nhìn được xương rõ nhất trên mặt, sau đó là quyền và hàm (kể cả răng).
Xu hướng xem xương thì chú trọng nhiều tới quan sát chuyển động của đương số như đi đứng nằm ngồi, quang sát toàn thân (long hổ cốt, bàn tay, bàn chân, lưng, cổ chân, đầu gối ..) , ít chia hình cách và luận ngũ hành nhưng xem kỹ âm dương (thịt là âm; xương là dương; cong, mềm, tròn là âm; thẳng, cứng góc cạnh là dương … âm dương phải tương xứng và đúng vị), phương vị (tướng nam, tướng bắc …). Xu hướng kia thì ngược lại, chú trọng cục cách (như kiểu tướng cọp, tướng khỉ, ngũ đoản, ngũ lộ …), ngủ hành (chia hành các phủ và độc, định hành tướng người … ) và rất quan trọng nốt ruồi. Vì dễ xem hơn, các kiến thức về tướng phổ biến thường thuộc xu hướng này.
Khi học sâu hơn, cũng như những môn khác, người ta sẽ thấy sự hội tụ của các xu hướng và biết áp dụng các kỹ thuật đúng lúc, đúng chỗ. Ví dụ như nếu quá chú ý nốt ruồi, gặp giống dân Bắc Á, nội đếm nốt ruồi thôi cũng đủ mệt chứ đừng nói chi luận giải ý nghĩa. Còn như quá chú ý tới chuyển động, có thể sẽ cảm thấy khó khăn khi phải xem qua hình (rất mốt hiện nay, có người còn xem tướng qua lời mô tả nữa!?). Dù sao, phải nhớ rằng, những nhân vật hàng đầu thiên hạ thường có một khung xương mỹ tú dù da thịt có thể tầm thường.


CÁC LỚP Ý NGHĨA CỦA NHÂN DIN
Có 3 lớp ý nghĩa chính cho cùng một vị trí trên mặt người. Đó là:
-          Các bộ vị, sách gọi là ngũ nhạc, ngủ độc, lục phủ …
-          Các cung, giống tử vi như mệnh, tài, quan …
-          Các niên vận, như từ đỉnh tráng đếm xuống là 15, 16, 19, 22, 25 tới ấn đường là 28…
Còn nhiều lớp ý nghĩa khác như y tướng học dùng trong đông y, phương vị trong địa lý … nhưng không bàn ở đây.
Vấn đề là khi xem và luận cát hung của từng lớp, cách đánh giá khác nhau. Ví dụ: không thể nói nam nhạc đẹp thì là cung phụ mẩu đẹp, các hạn trên đó đẹp. Nói chung là cái mệnh đề “Cái trán này đẹp” là chưa đủ và tối nghĩa. Để cho dể hiểu, lấy cái trán làm ví dụ:
Lớp thứ nhất 1: Tráng là nam nhạc thuộc ly, chủ văn minh. Thường người ta xem trán để đoán trí tuệ và xu hướng tiềm tàng của đương số. Ví dụ tráng phẳng dựng đứng là người thông minh, mạnh về logic (tư duy hội tụ), trong khi người có trán cong, rộng thì mạnh về trực giác và sáng tạo (tư duy phân kỳ). Tùy vào hình thể rộng hẹp, ta có thể có manh mối về nghề nghiệp phù hợp với đương số … đại khái vậy, thật ra thì đây là lớp khó nhất và phức tạp nhất, cũng là lớp thuần tướng số nhất.
Lớp thứ 2: Khi xem cung phụ mẫu, chỉ có phần đỉnh trán và phần thái Âm, thái Dương là liên quan mà thôi. Cái cần nhìn trước tiên là độ cong từ đỉnh đầu xuống của phần đỉnh trán và độ rộng của nó. Đường cong này phải tự nhiên không móp hảm thì cha mẹ mới ổn. Nếu không có đường cong này, tức từ chân tóc ra, tráng hầu như thẳng xuống, có thể đoán là không gần cha mẹ lúc nhỏ (được gửi nuôi).
Lớp thứ 3: Các hạn vận thì chủ yếu xem hình dạng hình học của vùng cục bộ đó và màu sắc của nó. Nếu chỉ có một phần của hạn bị khuyết hảm hoặc có màu sắc bất thường, phải nghĩ là người thân của đương số có nạn chứ không phải bản thân đương số. Nhấn mạnh về màu sắc: Màu là màu của phần da thịt ẩn dưới lớp da ngoài, đừng lầm với màu da mà xoay ra tính luôn lang beng và mụn nhọt vào luận đoán.
Nhân đây cũng nói thêm là theo truyền thống, đầu tiên phải học xem lớp thứ nhất cho thuần thục rồi mới tới các lớp kia nhưng tôi thấy có người viết cuốn sách, tiếp cận theo hướng nhào vô coi hạn liền. Theo tôi, đây cũng là một ý hay vì nói cho cùng xem bói là xem năm nào có chuyện gì xảy ra, khi nào đụng chuyện thì tra cứu ngược lại các cung và bộ vị để kiểm chứng cũng được.
VĂN, LÔNG MÀY VÀ NỐT RUỒI
1. Văn - các nếp nhăn trên mặt.
Trán thường có 3 nếp nhăn, theo thứ tự là Thiên, tượng cha mẹ, người trên; Nhân, tượng trưng bản thân và Địa, kẻ dưới, vợ con bạn bè. Theo những phái coi trọng văn, thì những đường này hết sức quan trọng, họ chia làm nhiều hình tướng như cô quả văn, độc hạc văn … Nói chung, văn rõ vừa phải, thẳng không đứt đoạn là tốt, thiếu văn hay chỉ có một nữa đường thì xấu.
Như có thể đoán, việc hình thành các văn này được tạo ra từ  tính tương họp âm dương của trán, tức độ cong, phẳng, thịt,  xương …. Ví dụ: văn trên cùng tượng cha mẹ, nếu 2 phần Nhật Nguyệt giác tương hòa, văn này sẽ thẳng, còn nếu một trong 2 hảm khuyết, văn này sẽ đứt đoạn.
Về văn ở ấn đường, chỉ có mỗi trường hợp là có 2 đường song song là ngon thôi, bát tự văn (hình chữ bát) hay huyền châm phá ấn (một đường xuyên ngang ấn đường) đều xấu. Cũng tương tự trán, văn này ra sao cũng bị quyết định bởi độ nhô của mi cốt và độ rộng của ấn đường.
Số nếp nhăn của đuôi mắt, nhiều người khoái chuyện giật gân, cho là số cuộc tình. Thật ra những cơ quanh mắt có 2 nhóm. Nhóm cơ phía trong, sát mắt thì người ta có thể điều khiển theo ý mình (để mhắm, ở mắt). Nhóm cơ phía ngoài thì chỉ co giật theo cảm xúc của chúng ta và phần lớn chúng ta không thể điều khiển được (theo Paul Ekman). Nhìn vùng cơ này, ta có thể đoán được các xu hướng xúc cảm của đương số. Khi nhóm cơ ngoài co, nhóm cơ phía trong sẽ bị nhăn bất thường, chính vì vậy, dò tìm các xúc cảm đã qua thì nên nhìn những nếp nhăn sát mắt chứ không phải đuôi mắt.
Kết luận cho chuyện văn trên mặt: nếu đã xem kỹ được hình cốt và da thịt thì văn không còn mấy ý nghĩa nữa. Vấn đề là, văn dễ xem hơn nhiều, không cần khả năng quan sát hình 3 chiều (mà nhiều người rất kém) nên phủ nhận toàn bộ giá trị của nó thì cũng không đúng, nhưng tin hoàn toàn thì cũng không nên. Tốt nhất là xem đó như là một gợi ý.
2. Lông mày: Có người nói “vấn danh tại mi” - nếu muốn biết anh là loại người gì thì hảy nhìn lông mày. Có người thì cho là lông mày chẳng qua là chi tiết ngoại vi, không đáng kể.
Thật ra lông mày đánh dấu mi cốt. Thế của lông mày cho ta biết hình của mi cốt.
Thử khảo sát vài vấn đề lùng bùng xung quanh lông mày.
Lông mày giao nhau thì sao:  Nếu lông mài giao nhau, trong nhiều trường họp, là do 2 mi cốt quá gần, tất nhiên làm cung mệnh hẹp lại, nếu mi cốt mà nhô cao, cung mệnh sẽ tối đi. Nếu là vậy, tất nhiên khả năng thích ứng và giải quyết các xung đột trong cuộc đời của đương số kém dẫn đến đời sống nhiều điều bất toại ý. Nếu cạo đi thì cũng chẳng thay đổi được gì vì phần mi cốt bên dưới vẫn thế.
Trường họp ngược lại, lông mày lấn vào ấn đường chỉ vì tốt râu, tốt tóc quá, 2 mi cốt vẫn đủ xa và phẳng thì không có vấn đề gì nghiêm trọng cho bản mệnh, hơi có vấn đề chút cho người phối ngẩu thôi. Mà đã thế cũng chẳng đáng để cạo.
Có người luận là lông mày giao nhau là anh em xung khắc là hoàn toàn sai. Cung huynh đệ không nằm ở đầu mày. Đuôi mày cũng chỉ là một phần của cung huynh đệ thôi. Thế nên, những người có đoản mi, la hán mi, vĩ tán mi cũng chưa chắc là xung khắc anh em. Mà đâu cứ xung khắc mới xấu.
Thế của lông mày, như trên đã nói, phản ánh hình dạng của mi cốt và hố mắt; độ xanh tươi, rậm rạp của mày tùy thuộc vào độ nhô của mi cốt.
Sách nói mi trường quá mục thì chung thân phú quí: thật ra sau câu trên, người ta cũng nhấn mạnh là quang mắt phải tốt thì mới ăn được cách này. Chẳng cần mi trường quá mục, quang mắt mà đẹp thì mọi hình tướng xấu của mắt sẽ giảm nhẹ đi gần hết (trừ qủy nhãn).
Cũng tương tự như văn, mày thì dễ xem hơn mi cốt và những vùng phụ cận nhưng cũng dễ nhầm lẫn.
3. Nốt ruồi:
Tôi có thấy khoảng 5 hay 6 cái sơ đồ nốt ruồi trên mặt kèm theo chú giải cho từng vị trí trong các sách khác nhau. Đáng buồn là không cái nào giống cái nào.
Như đã từng nói trong phần viết về các phương pháp đoán số, nền tảng của con người là khung xương, kế tới da thịt và cuối cùng là khí vận chuyển trong hệ thống kinh lạc trong cơ thể (các thầy châm cứu nghiên cứu hệ thống này rất kỹ). Nếu dòng sinh lực này bị nghẽn hay phát động bất thường, nốt ruồi được sinh ra.
Như vậy, nốt ruồi chỉ là dấu ấn hay là tiềm ẩn báo trước một sự việc. Điều này là dỉ nhiên thôi vì một nốt ruồi ngoài da, có khi lúc ẩn lúc hiện không thể phủ định cái căn bản xâu xa của con người là xương cốt, tức không có thể có nốt ruồi sát phu như kiểu mũi hay quyền sát phu được.
Để cho dễ định hướng và tự kiểm tra, người học tướng nên luận nốt ruồi theo kiểu dấu tích của quá khứ hay báo trước một sự kiện. Ví dụ: nốt ruồi ẩn trong đuôi lông mày là dấu tích của tai nạn sông nước hay hỏa hoạn trong quá khứ. Nếu đương số chưa từng bị nạn này, thì nạn có thể xảy ra ở khoảng ngoài 40 tuổi. Ví dụ khác là nốt ruồi trên chóp mủi. Nó có thể chỉ tính hay cờ bạc của nam, tình chồng nhạt nhẻo ở nữ nhưng không chắc đúng 100%, cái chắc chắn là nó chỉ ra một sự chia cắt tài sản hay nặng hơn là phá sản, trắng tay vào tầm ngoài 30 tuổi.